NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XII
về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp
-------------
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Chính sách tiền lương là một bộ phận
đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan
trực tiếp đến các cân đối lớn của nền kinh tế, thị trường lao động và
đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh
gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính
sách tiền lương vào các năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003. Kết
luận Hội nghị Trung ương 8 khoá IX về Đề án cải cách chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2003 -
2007 đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện theo chủ trương, quan điểm
chỉ đạo của Đại hội Đảng các khoá X, XI, XII, Kết luận Hội nghị Trung
ương 6 khoá X, đặc biệt là các Kết luận số 23-KL/TW, ngày 29/5/2012 của
Hội nghị Trung ương 5 và Kết luận số 63-KL/TW, ngày 27/5/2013 của Hội
nghị Trung ương 7 khoá XI. Nhờ đó, tiền lương trong khu vực công của cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang đã từng bước được cải
thiện, nhất là ở những vùng, lĩnh vực đặc biệt khó khăn, góp phần nâng
cao đời sống người lao động. Trong khu vực doanh nghiệp, chính sách tiền
lương từng bước được hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước.
2. Bên cạnh kết quả đạt được, chính sách
tiền lương vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chính sách tiền lương trong
khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với
vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình
quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa
tạo được động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của người
lao động. Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số không thể hiện rõ giá
trị thực của tiền lương. Có quá nhiều loại phụ cấp, nhiều khoản thu nhập
ngoài lương do nhiều cơ quan, nhiều cấp quyết định bằng các văn bản quy
định khác nhau làm phát sinh những bất hợp lý, không thể hiện rõ thứ
bậc hành chính trong hoạt động công vụ. Chưa phát huy được quyền, trách
nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc đánh giá và trả lương,
thưởng, gắn với năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công tác của
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
3. Những hạn chế, bất cập nêu trên có
nguyên nhân khách quan từ nội lực nền kinh tế còn yếu, chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tích
luỹ còn ít, nguồn lực nhà nước còn hạn chế... nhưng nguyên nhân chủ quan
là chủ yếu. Việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về chính sách tiền
lương còn chậm, chưa có nghiên cứu căn bản và toàn diện về chính sách
tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ
còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Số đơn vị sự
nghiệp công lập tăng nhanh, số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách
nhà nước còn quá lớn. Việc xác định vị trí việc làm còn chậm, chưa thực
sự là cơ sở để xác định biên chế, tuyển dụng, đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức và trả lương. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, hệ
thống thông tin thị trường lao động, tiền lương, năng lực thương lượng
về tiền lương của người lao động trong ký kết hợp đồng lao động và vai
trò của tổ chức công đoàn trong các thoả ước lao động tập thể còn hạn
chế. Công tác hướng dẫn, tuyên truyền về chính sách tiền lương chưa tốt,
dẫn đến việc xây dựng và thực hiện một số chính sách còn chưa tạo được
đồng thuận cao.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH
1. Quan điểm chỉ đạo
1.1. Chính sách tiền lương là một chính
sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Tiền
lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao
động và gia đình người hưởng lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát
triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; thúc đẩy, nâng
cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.
1.2. Cải cách chính sách tiền lương phải
bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu
điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền
lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật
khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở
để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước.
1.3. Trong khu vực công, Nhà nước trả
lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí
việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà
nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan hợp lý với
tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen
thưởng xứng đáng theo năng suất lao động, tạo động lực nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp
phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị.
1.4.Trong khu vực doanh nghiệp, tiền
lương là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu là mức sàn
thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những
căn cứ để thoả thuận tiền lương và điều tiết thị trường lao động. Phân
phối tiền lương dựa trên kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh
doanh, bảo đảm mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong
doanh nghiệp.
1.5. Cải cách chính sách tiền lương là yêu
cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy cải cách
hành chính; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế; đổi mới hệ thống
tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng hệ thống chính sách tiền lương
quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn
đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người
hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Từ năm 2018 đến năm 2020
a) Đối với khu vực công
- Tiếp tục điều chỉnh tăng mức lương cơ sở
theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu
dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại
phụ cấp mới theo nghề.
- Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chế
độ tiền lương mới theo nội dung cải cách chính sách tiền lương, gắn với
lộ trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế; đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập
theo Nghị quyết của Trung ương.
b) Đối với khu vực doanh nghiệp
- Thực hiện điều chỉnh tăng mức lương tối
thiểu vùng phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, khả năng chi
trả của doanh nghiệp để đến năm 2020 mức lương tối thiểu bảo đảm mức
sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
- Thực hiện thí điểm quản lý lao động,
tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước theo các nội dung của Đề án cải
cách chính sách tiền lương được phê duyệt.
(2) Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030
a) Đối với khu vực công
- Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương
mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang
trong toàn bộ hệ thống chính trị.
- Năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán
bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của
khu vực doanh nghiệp.
- Định kỳ thực hiện nâng mức tiền lương
phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng, mức tăng trưởng kinh tế và khả năng
của ngân sách nhà nước.
- Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của
cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các
vùng của khu vực doanh nghiệp.
- Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của
cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của
vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
b) Đối với khu vực doanh nghiệp
- Từ năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh
mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương
quốc gia. Các doanh nghiệp được thực hiện chính sách tiền lương trên cơ
sở thương lượng, thoả thuận giữa người sử dụng lao động với người lao
động và đại diện tập thể người lao động; Nhà nước không can thiệp trực
tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
- Thực hiện quản lý lao động, tiền lương
trong doanh nghiệp nhà nước theo phương thức khoán chi phí tiền lương
gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến năm 2025 và
tiến tới giao khoán nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vào
năm 2030.
3. Nội dung cải cách
3.1. Đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (khu vực công)
a) Thiết kế cơ cấu tiền lương mới gồm:
Lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp
(chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương). Bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng
bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương của năm, không bao gồm phụ cấp).
b) Xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương
mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ
thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm
không thấp hơn tiền lương hiện hưởng, gồm:
- Xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng
đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ
nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã theo nguyên
tắc: (1) Mức lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính
trị; giữ chức vụ lãnh đạo nào thì hưởng lương theo chức vụ đó, nếu một
người giữ nhiều chức vụ thì hưởng một mức lương chức vụ cao nhất; giữ
chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương chức vụ như nhau;
mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp trên phải cao hơn mức lương
chức vụ của người lãnh đạo cấp dưới; (2) Quy định một mức lương chức vụ
cho mỗi loại chức vụ tương đương; không phân loại bộ, ngành, ban, uỷ ban
và tương đương ở Trung ương khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung
ương; không phân biệt mức lương chức vụ khác nhau đối với cùng chức danh
lãnh đạo theo phân loại đơn vị hành chính ở địa phương mà thực hiện
bằng chế độ phụ cấp. Việc phân loại chức vụ lãnh đạo tương đương trong
hệ thống chính trị để thiết kế bảng lương chức vụ do Bộ Chính trị quyết
định sau khi đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương.
- Xây dựng 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp
vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng
chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi
ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có nhiều bậc lương theo
nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức lương như nhau; điều
kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thì thực hiện bằng chế
độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch
công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên
chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc bổ nhiệm vào ngạch
công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức phải gắn với vị trí việc
làm và cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức do cơ
quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức thực hiện.
- Xây dựng 3 bảng lương đối với lực lượng
vũ trang, gồm: 1 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ công an (theo chức vụ, chức danh và cấp bậc quân hàm hoặc cấp hàm); 1
bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1
bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an (trong đó giữ tương
quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như
hiện nay).
c) Xác định các yếu tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới
- Bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong bảng lương mới.
- Thực hiện thống nhất chế độ hợp đồng lao
động theo quy định của Bộ luật Lao động (hoặc hợp đồng cung cấp dịch
vụ) đối với những người làm công việc thừa hành, phục vụ (yêu cầu trình
độ đào tạo dưới trung cấp), không áp dụng bảng lương công chức, viên
chức đối với các đối tượng này.
- Xác định mức tiền lương thấp nhất của
công chức, viên chức trong khu vực công là mức tiền lương của người làm
công việc yêu cầu trình độ đào tạo trung cấp (bậc 1) không thấp hơn mức
tiền lương thấp nhất của lao động qua đào tạo trong khu vực doanh
nghiệp.
- Mở rộng quan hệ tiền lương làm căn cứ để
xác định mức tiền lương cụ thể trong hệ thống bảng lương, từng bước
tiệm cận với quan hệ tiền lương của khu vực doanh nghiệp phù hợp với
nguồn lực của Nhà nước.
- Hoàn thiện chế độ nâng bậc lương thường
xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang phù hợp với quy định của bảng lương mới.
d) Sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, bảo đảm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối đa 30% tổng quỹ lương
- Tiếp tục áp dụng phụ cấp kiêm nhiệm; phụ
cấp thâm niên vượt khung; phụ cấp khu vực; phụ cấp trách nhiệm công
việc; phụ cấp lưu động; phụ cấp phục vụ an ninh, quốc phòng và phụ cấp
đặc thù đối với lực lượng vũ trang (quân đội, công an, cơ yếu).
- Gộp phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp
trách nhiệm theo nghề và phụ cấp độc hại, nguy hiểm (gọi chung là phụ
cấp theo nghề) áp dụng đối với công chức, viên chức của những nghề, công
việc có yếu tố điều kiện lao động cao hơn bình thường và có chính sách
ưu đãi phù hợp của Nhà nước (giáo dục và đào tạo, y tế, toà án, kiểm
sát, thi hành án dân sự, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, hải quan, kiểm
lâm, quản lý thị trường,...). Gộp phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút và
trợ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn thành phụ cấp công tác ở vùng đặc biệt khó khăn.
- Bãi bỏ phụ cấp thâm niên nghề (trừ quân
đội, công an, cơ yếu để bảo đảm tương quan tiền lương với cán bộ, công
chức); phụ cấp chức vụ lãnh đạo (do các chức danh lãnh đạo trong hệ
thống chính trị thực hiện xếp lương chức vụ); phụ cấp công tác đảng,
đoàn thể chính trị - xã hội; phụ cấp công vụ (do đã đưa vào trong mức
lương cơ bản); phụ cấp độc hại, nguy hiểm (do đã đưa điều kiện lao động
có yếu tố độc hại, nguy hiểm vào phụ cấp theo nghề).
- Quy định mới chế độ phụ cấp theo phân loại đơn vị hành chính đối với cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh.
- Thực hiện nhất quán khoán quỹ phụ cấp
hằng tháng đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn
và tổ dân phố trên tỉ lệ chi thường xuyên của Uỷ ban nhân dân cấp xã;
đồng thời, quy định số lượng tối đa những người hoạt động không chuyên
trách theo từng loại hình cấp xã, thôn, tổ dân phố. Trên cơ sở đó, Uỷ
ban nhân dân cấp xã trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định cụ thể
chức danh được hưởng phụ cấp theo hướng một chức danh có thể đảm nhiệm
nhiều công việc nhưng phải bảo đảm chất lượng, hiệu quả công việc được
giao.
đ) Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi thường xuyên được giao hằng
năm để thuê chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị và quyết định mức chi trả thu
nhập tương xứng với nhiệm vụ được giao.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
xây dựng quy chế để thưởng định kỳ cho các đối tượng thuộc quyền quản
lý, gắn với kết quả đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành công việc của
từng người.
- Mở rộng áp dụng cơ chế thí điểm đối với
một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tự cân đối ngân sách và
bảo đảm đủ nguồn thực hiện cải cách tiền lương, các chính sách an sinh
xã hội được chi thu nhập bình quân tăng thêm không quá 0,8 lần quỹ lương
cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý.
- Đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư, hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên và các quỹ
tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện cơ chế tự
chủ tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp.
- Đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một
phần chi thường xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà
nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thì áp dụng chế độ tiền lương như
công chức. Tiền lương thực trả gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề
nghiệp viên chức do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định
trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nước cấp và từ nguồn thu của đơn
vị), năng suất lao động, chất lượng công việc và hiệu quả công tác theo
quy chế trả lương của đơn vị, không thấp hơn chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định.
3.2. Đối với người lao động trong doanh nghiệp
a) Về mức lương tối thiểu vùng
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách về tiền
lương tối thiểu vùng theo tháng; bổ sung quy định mức lương tối thiểu
vùng theo giờ nhằm nâng cao độ bao phủ của tiền lương tối thiểu và đáp
ứng tính linh hoạt của thị trường lao động.
- Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng bảo
đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình người hưởng lương,
đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của thị trường lao động và phát
triển kinh tế - xã hội (cung - cầu lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế,
chỉ số giá tiêu dùng, năng suất lao động, việc làm, thất nghiệp, khả
năng chi trả của doanh nghiệp...).
- Kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức của Hội đồng Tiền lương quốc gia; bổ sung các chuyên gia độc lập
tham gia Hội đồng.
b) Về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập
- Các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp
100% vốn nhà nước) được tự quyết định chính sách tiền lương (trong đó có
thang, bảng lương, định mức lao động) và trả lương không thấp hơn mức
lương tối thiểu do Nhà nước công bố và trên cơ sở thoả ước lao động tập
thể phù hợp với tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, khả năng của doanh
nghiệp và công khai tại nơi làm việc.
- Nhà nước công bố mức lương tối thiểu
vùng theo tháng và theo giờ, tiền lương bình quân trên thị trường đối
với các ngành nghề và hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường lao động,
không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp và người lao động thương lượng, thoả thuận tiền lương, ký
hợp đồng lao động và trả lương gắn với năng suất và kết quả lao động.
Doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động thương lượng, thoả thuận
về tiền lương, tiền thưởng, các chế độ khuyến khích khác trong thoả ước
lao động tập thể hoặc trong quy chế của doanh nghiệp. Tăng cường vai
trò, năng lực của tổ chức công đoàn và công tác thanh tra, kiểm tra của
các cơ quan quản lý nhà nước.
c) Đối với doanh nghiệp nhà nước
- Nhà nước quy định nguyên tắc chung để
xác định tiền lương và tiền thưởng đối với doanh nghiệp nhà nước gắn với
năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hướng đến bảo đảm
mặt bằng tiền lương trên thị trường. Thực hiện giao khoán chi phí tiền
lương, bao gồm cả tiền thưởng trong quỹ lương gắn với nhiệm vụ, điều
kiện sản xuất kinh doanh, ngành nghề, tính chất hoạt động của doanh
nghiệp; từng bước tiến tới thực hiện giao khoán, nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh gắn với kết quả, hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước của
doanh nghiệp.
- Phân định rõ tiền lương của người đại
diện vốn nhà nước với tiền lương của ban điều hành; thực hiện nguyên tắc
ai thuê, bổ nhiệm thì người đó đánh giá và trả lương. Nhà nước quy định
mức lương cơ bản, tiền lương tăng thêm và tiền thưởng theo năm gắn với
quy mô, mức độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử
dụng vốn nhà nước đối với người đại diện vốn nhà nước. Mức lương cơ bản
được điều chỉnh phù hợp theo mức lương của thị trường trong nước và khu
vực. Từng bước tiến tới thuê hội đồng thành viên độc lập và trả lương
cho hội đồng thành viên, kiểm soát viên từ lợi nhuận sau thuế. Tổng giám
đốc và các thành viên ban điều hành làm việc theo chế độ hợp đồng lao
động và hưởng lương trong quỹ lương chung của doanh nghiệp, trong đó có
khống chế mức lương tối đa theo kết quả sản xuất kinh doanh và mức tiền
lương bình quân chung của người lao động. Thực hiện công khai tiền
lương, thu nhập hằng năm của người đại diện vốn nhà nước và tổng giám
đốc doanh nghiệp nhà nước.
- Đối với doanh nghiệp làm nhiệm vụ bình
ổn thị trường theo nhiệm vụ được Nhà nước giao thì tính toán, xác định
để loại trừ những chi phí bảo đảm thực hiện nhiệm vụ bình ổn thị trường,
làm cơ sở xác định tiền lương, tiền thưởng của người lao động và người
quản lý doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ công ích, Nhà nước
tính đúng, tính đủ chi phí tiền lương phù hợp với mặt bằng thị trường
vào chi phí, đơn giá sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước thực hiện
chính sách điều tiết thu nhập bảo đảm hài hoà lợi ích giữa doanh nghiệp,
người quản lý, người lao động và Nhà nước.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1.Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội
dung của cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp. Nâng
cao nhận thức, đổi mới tư duy, phương pháp, cách làm, tạo sự đồng thuận
cao ở các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp,
người hưởng lương và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tiền lương.
2. Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ
thống vị trí việc làm, coi đây là giải pháp căn bản mang tính tiền đề để
thực hiện cải cách tiền lương
- Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện pháp
luật cán bộ, công chức, viên chức; chọn lọc tiếp thu kinh nghiệm tốt của
quốc tế, rà soát bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về vị trí
việc làm và các tiêu chí đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên
chức gắn với từng vị trí việc làm trong khu vực công để làm căn cứ tuyển
dụng, sử dụng, đánh giá và trả lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức.
- Các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ
thống chính trị trực tiếp xây dựng và hoàn thiện danh mục vị trí việc
làm, bản mô tả công việc, xác định cơ cấu công chức, viên chức, cấp bậc
hàm sĩ quan; xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm và tinh
giản biên chế theo các nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước đã
được ban hành. Trên cơ sở đó, thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang để
thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
3. Xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới
- Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo xây dựng và quản lý chính sách tiền lương của toàn hệ thống
chính trị. Bộ Chính trị quyết định chủ trương, nguyên tắc và giao Ban
cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo Chính phủ cụ thể hoá việc thống nhất quản
lý, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền, uỷ quyền cho cơ quan chức
năng ban hành văn bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức
và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến cấp xã.
- Sau khi báo cáo Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị quyết định việc phân loại chức vụ tương đương trong
hệ thống chính trị làm căn cứ xây dựng bảng lương mới.
- Các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà
nước xây dựng văn bản quy định chế độ tiền lương mới báo cáo Bộ Chính
trị xem xét, quyết định trước khi ban hành, để từ năm 2021 thực hiện
chuyển xếp lương cũ sang lương mới theo nguyên tắc bảo đảm không thấp
hơn tiền lương hiện hưởng.
4. Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài
chính, ngân sách, coi đây là nhiệm vụ đột phá để tạo nguồn lực cho cải
cách chính sách tiền lương
- Thực hiện quyết liệt và có hiệu quả các
nghị quyết của Trung ương về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; về phát triển kinh tế tư nhân; về đổi mới, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết của Bộ Chính trị về
cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công nhằm phát triển nguồn
thu bền vững, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương.
- Triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu
ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm tổng nguồn thu và cơ cấu thu bền
vững. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách thu theo hướng mở rộng
cơ sở thuế, bao quát nguồn thu mới. Tăng cường quản lý thu, tạo chuyển
biến căn bản trong việc chống thất thu, xử lý và ngăn chặn các hành vi
buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh hàng giả, chuyển giá,
trốn thuế. Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong sử
dụng ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Quyết liệt thu hồi
tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
- Hằng năm, dành khoảng 50% tăng thu dự
toán và 70% tăng thu thực hiện của ngân sách địa phương, khoảng 40% tăng
thu ngân sách Trung ương cho cải cách chính sách tiền lương.
- Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả
chi ngân sách nhà nước; tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi
thường xuyên tăng thêm hằng năm cho đến khi thực hiện khoán quỹ tiền
lương trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao.
- Nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền
lương còn dư sau khi bảo đảm điều chỉnh mức lương cơ sở hằng năm và bảo
đảm các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành (đối với ngân
sách địa phương), các dự án đầu tư theo quy định (đối với các địa phương
có tỉ lệ điều tiết) theo nghị quyết của Quốc hội phải tiếp tục sử dụng
để thực hiện cải cách chính sách tiền lương sau năm 2020, không sử dụng
vào mục đích khác khi không được cấp có thẩm quyền cho phép.
- Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán
bộ, công chức, viên chức có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như: Tiền
bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề
án; hội thảo... Thực hiện khoán quỹ lương gắn với mục tiêu tinh giản
biên chế cho các cơ quan, đơn vị. Mở rộng cơ chế khoán kinh phí gắn với
kết quả thực hiện nhiệm vụ. Không gắn mức lương của cán bộ, công chức,
viên chức với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chính
sách, chế độ không có tính chất lương. Nghiên cứu quy định khoán các
chế độ ngoài lương (xe ô tô, điện thoại...). Chỉ ban hành các chính
sách, chế độ mới khi đã bố trí, cân đối được nguồn lực thực hiện.
- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang
thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính đúng, tính đủ các
chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời gắn với
chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Đối với
giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền
tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc
bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
Đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ tài
chính phải tự bảo đảm nguồn để thực hiện cải cách chính sách tiền lương.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm một phần chi thường xuyên,
tiếp tục sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ (riêng
ngành Y tế sử dụng tối thiểu 35% sau khi trừ các chi phí đã kết cấu vào
giá dịch vụ), tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm
hằng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để bảo
đảm nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương.
Đơn vị sự nghiệp công lập không có nguồn
thu do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên, thực hiện
tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm hằng năm và sắp
xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để thực hiện cải cách
chính sách tiền lương.
5. Triển khai thực hiện có hiệu quả các
Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII và các đề án đổi mới, cải cách trong
các ngành, lĩnh vực có liên quan là công việc rất quan trọng để cải cách
chính sách tiền lương một cách đồng bộ
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới,
tinh giản, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp công lập. Gắn trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị và
người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập với việc thể chế hoá và
thực hiện các Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII, đặc biệt là việc sắp xếp
tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế người hưởng lương, phụ cấp
từ ngân sách nhà nước, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
tạo nguồn bền vững cho cải cách chính sách tiền lương.
6. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
- Sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về cán bộ,
công chức, viên chức, lao động, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội và pháp
luật có liên quan đến chính sách tiền lương trong khu vực công và khu
vực doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm, kỷ
luật, trả lương và quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động trong doanh nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp. Xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về đối tượng và tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức,
bảo đảm liên thông, tích hợp với các cơ sở dữ liệu quốc gia khác có liên
quan.
- Hoàn thiện cơ chế thoả thuận về tiền
lương trong doanh nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối thoại,
thương lượng và thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ lao động theo
hướng công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm hài hoà lợi ích của người
lao động và người sử dụng lao động, tạo sự đồng thuận cao. Phát triển tổ
chức và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn cơ sở, quản
lý tốt việc thành lập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động.
Cơ quan thống kê của Nhà nước công bố mức sống tối thiểu hằng năm để
làm căn cứ xác định mức lương tối thiểu và khuyến nghị các định hướng
chính sách tiền lương; tăng cường điều tra, công bố định kỳ thông tin,
số liệu về tiền lương và thu nhập của cả khu vực công và khu vực thị
trường. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác nghiên cứu cơ bản và thiết
kế chính sách về lao động và tiền lương.
- Làm tốt công tác phối hợp giữa cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư,
tài chính các cấp trong quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách
nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát thực hiện chính sách tiền lương theo quy định của pháp luật
trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ
chức chính trị - xã hội. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cố tình