Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá,
hôm nay Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ bảy để
thảo luận cho ý kiến về các nội dung: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một số vấn đề quan trọng khác.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi
nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, các
đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới các đồng chí lời
chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Thời gian qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã
chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng và các cơ quan hữu quan
khẩn trương, nghiêm túc chuẩn bị các đề án, báo cáo, tờ trình về các
vấn đề nêu trên, gửi Trung ương theo đúng Quy chế làm việc để các đồng
chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin phát biểu một số ý kiến có tính
gợi mở, nêu vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo
luận, xem xét, quyết định.
1. Về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp
Như chúng ta đều biết, cán bộ và công tác
cán bộ là vấn đề đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc", "muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém".
Từ trước đến nay, nhất là trong những
nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng; đã có nhiều quyết sách rất
đúng về cán bộ và công tác cán bộ; kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ
đạo triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp, đạt được những kết
quả quan trọng. Nhờ đó, đội ngũ các cấp đã có bước trưởng thành, phát
triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi,
giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý
hơn. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên
định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức,
lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn rèn luyện,
phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp có trình độ, năng lực, phẩm chất, uy tín; cán bộ cấp chiến lược
có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối và lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện. Gần đây, việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một
số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe,
ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, từng bước củng cố
niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ còn bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị đông nhưng chưa mạnh, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán
bộ xảy ra ở nhiều nơi. Cơ cấu giữa các ngành, nghề, lĩnh vực chưa thật
sự hợp lý, thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành; thiếu những cán
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành. Một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín
thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa
thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân; vướng vào tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp thiếu ý chí
tu dưỡng, rèn luyện, thậm chí lợi dụng sơ hở, cố ý làm trái, trục lợi,
làm thất thoát vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân
chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... chậm được ngăn chặn và đẩy lùi.
Có thể khẳng định, sự trưởng thành, phát
triển của đội ngũ cán bộ và những ưu điểm trong công tác cán bộ là nhân
tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử trong công cuộc đổi mới đất nước. Song những yếu kém, khuyết điểm
của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và làm suy giảm niềm tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước ta.
Hiện nay, đất nước đang đứng trước những
yêu cầu, nhiệm vụ mới với những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách
thức mới đan xen. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất
nước nhanh và bền vững đang chuyển sang giai đoạn mới, cao hơn, ngày
càng đi vào chiều sâu, khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Tình hình,
bối cảnh trong nước, quốc tế đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, khó lường dưới tác động của kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và nhiều yếu tố, xu
hướng chính trị-kinh tế-xã hội khác. Sự chống phá của các thế lực thù
địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn trong điều kiện phát
triển bùng nổ của hệ thống thông tin, truyền thông toàn cầu, chiến tranh
mạng. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã yêu cầu: Phải
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo đúng tinh thần
"thời kỳ nào, phong trào nào thì cán bộ đó".
Thực hiện Chương trình làm việc của Ban
Chấp hành Trung ương, ngay từ tháng 5/2016, Ban Bí thư đã thành lập Ban
Chỉ đạo xây dựng Đề án để thực hiện nhiệm vụ Đại hội XII đã đề ra, tiến
hành tổng kết 20 năm (1997- 2017) thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá
VIII về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước", trên cơ sở đó xây dựng Đề án và Dự thảo Nghị quyết để
trình Hội nghị Trung ương lần này. Đề án và Dự thảo Nghị quyết đã được
xây dựng, biên tập, chỉnh sửa nhiều lần, lắng nghe ý kiến đóng góp của
các ban, bộ, ngành và các tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương; tham
vấn ý kiến của nhiều đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
cán bộ lão thành, các nhân sĩ, trí thức và các nhà khoa học.
Đề nghị các đồng chí Trung ương và các
đồng chí tham dự Hội nghị nghiên cứu kỹ các dự thảo văn bản và xuất phát
từ thực tiễn phong phú của địa phương, đơn vị, thảo luận, đánh giá
khách quan, khoa học về những kết quả, thành tích đã đạt được, phân tích
sâu sắc những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và chỉ rõ nguyên nhân, nhất
là nguyên nhân chủ quan. Trả lời cho được câu hỏi vì sao 20 năm qua, đặc
biệt những năm gần đây mặc dù Đảng ta đã có rất nhiều chủ trương, chính
sách về công tác cán bộ được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình,
ủng hộ, nhưng trong thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp?
Nguyên nhân từ đâu, ở khâu nào, cấp nào? Đồng thời, phân tích, dự báo
tình hình trong nước, quốc tế trong thời gian tới; xác định rõ yêu cầu,
nhiệm vụ mới, bối cảnh mới, nhất là những yếu tố tác động, cả tích cực
lẫn tiêu cực đến cán bộ và công tác cán bộ. Từ đó, đi sâu thảo luận, làm
rõ, tạo sự thống nhất cao về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu
trước mắt cũng như lâu dài và những nhiệm vụ, giải pháp lớn, có tính đột
phá khả thi cao để sớm khắc phục triệt để những hạn chế đã nêu, làm tốt
hơn nữa công tác cán bộ, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ. Cố gắng chỉ ra khâu đột phá là khâu nào? Đánh giá cán bộ hay sắp
xếp, bố trí cán bộ? Khắc phục tình trạng "chạy chức, chạy quyền" hay
"thân quen, cánh hẩu"? Chú trọng đặc biệt phẩm chất hay năng lực hay coi
trọng cả hai? Vì sao có nhiều nghị quyết rất đúng, rất trúng nhưng việc
thực hiện hiệu quả lại thấp? Vì sao quy trình thì đúng nhưng bố trí con
người cụ thể lại sai? Vướng mắc chính là ở chỗ nào? Cơ chế giám sát
quyền lực đã đủ chưa? Chính sách tạo ra động lực để cán bộ tâm huyết gắn
bó với sự nghiệp là gì?...
2. Về cải cách chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là một bộ phận rất
quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống
chính sách kinh tế-xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối lớn của
nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống của người hưởng lương, góp
phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính
sách tiền lương, vào các năm 1960, 1985, 1993 và năm 2003. Kết luận của
Hội nghị Trung ương 8 khoá IX về Đề án cải cách chính sách tiền lương,
bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2003-2007 đã
từng bước được bổ sung, hoàn thiện theo chủ trương, quan điểm chỉ đạo
của Đại hội Đảng các khoá X, XI, XII, đặc biệt là các kết luận của Hội
nghị Trung ương 5 và Hội nghị Trung ương 7 khoá XI về vấn đề này. Nhờ
đó, tiền lương trong khu vực công đã từng bước được cải thiện, nhất là ở
những vùng và lĩnh vực đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao đời sống
của người hưởng lương; tiền lương trong khu vực doanh nghiệp từng bước
được hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập. Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế
hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức
vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, cào bằng, chưa tạo được động
lực để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc của người
lao động. Quy định mức lương bằng mức lương cơ sở nhân với hệ số đã
không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương. Có quá nhiều loại phụ
cấp, nhiều khoản thu nhập ngoài lương do nhiều cơ quan quyết định, bằng
nhiều văn bản quy định khác nhau, làm phát sinh nhiều bất hợp lý, không
thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ; chưa động viên
được người có chuyên môn, nghiệp vụ, năng suất lao động cao. Tiền lương
cơ bản của khu vực công thấp hơn khu vực doanh nghiệp, chưa bảo đảm nhu
cầu thiết yếu của đời sống và chưa phải là nguồn thu nhập chính của
nhiều người hưởng lương. Nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương
đối với khu vực công về cơ bản vẫn do ngân sách Nhà nước bảo đảm và chủ
yếu từ ngân sách Trung ương. Việc thực hiện xã hội hoá và điều chỉnh giá
phí dịch vụ công theo cơ chế thị trường trong nhiều lĩnh vực còn chậm.
Nhiều địa phương còn dư nguồn cải cách tiền lương nhưng không được chi
lương cao hơn.
Tiền lương trong các loại hình doanh
nghiệp chưa phản ánh đúng quan hệ phân phối theo lao động trong nền kinh
tế thị trường, chưa tạo được động lực nâng cao năng suất lao động, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Việc Nhà nước quy định một số
nguyên tắc về xây dựng thang, bảng lương đã can thiệp quá sâu vào quyền
tự chủ tiền lương của doanh nghiệp; chưa phát huy được vai trò, tác dụng
của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền lương giữa người sử dụng lao
động và người lao động trong quan hệ lao động. Cơ chế quản lý tiền lương
đối với doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự gắn tiền lương của người lao
động với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh.
Vì vậy, đã đến lúc chúng ta phải tiến hành
cải cách một cách cơ bản chính sách tiền lương để khắc phục những hạn
chế, bất cập nêu trên. Đề nghị các đồng chí Trung ương nghiên cứu kỹ
lưỡng, thảo luận sâu sắc, toàn diện các nội dung, vấn đề nêu trong Tờ
trình, Đề án và Dự thảo Nghị quyết của Trung ương. Chú ý đánh giá khách
quan, khoa học về tình hình và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; phân
tích, dự báo bối cảnh tiến hành cải cách lần này, thấy hết những khó
khăn, thách thức cũng như thời cơ, thuận lợi mới. Phải chăng, về thời
cơ, thuận lợi, có thể kể đến: Thành tựu có ý nghĩa lịch sử của 30 năm
đổi mới, tiềm lực kinh tế và ngân sách nhà nước, thu nhập và đời sống
của nhân dân đã được cải thiện, nâng cao đáng kể; những kết quả tích
cực, khá toàn diện của việc triển khai thực hiện các kết luận của Hội
nghị Trung ương 5, Trung ương 7 khoá XI về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, ban hành và đang quyết liệt
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII "Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" và "Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức
và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập", là những tiền đề rất căn bản để cải cách tiền lương?
Từ đó, thống nhất nhận thức về sự cần
thiết, cấp bách và tính khả thi của việc tiến hành cải cách chính sách
tiền lương lần này; xác định rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu
tổng quát và mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn; những chính sách, biện
pháp, nhất là những chính sách, biện pháp có tính đột phá, khả thi cao
để sớm khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay, bảo đảm cho cải cách
tiền lương lần này thực sự tạo được sự đột phá trong chế độ phân phối,
tạo động lực cho người lao động và nền kinh tế nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tập trung xem xét, quyết định những
vấn đề mới, có tính cải cách, đặc biệt là các vấn đề Bộ Chính trị xin ý
kiến Trung ương.
3. Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội, bao gồm các chế độ hưu
trí, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
thất nghiệp,... là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm về chính
trị-kinh tế-xã hội; có lịch sử phát triển lâu dài trên thế giới, nhất là
ở các nước công nghiệp phát triển, góp phần quan trọng vào quá trình
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và phản ánh trình độ phát triển,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở mỗi nước. Riêng ở nước ta, bảo
hiểm xã hội mới được bắt đầu thực hiện từ năm 1961, và chỉ mới áp dụng
đối với khu vực công, chủ yếu là chế độ hưu trí, tử tuất của thời kỳ
kinh tế kế hoạch hoá tập trung và chỉ thực sự bắt đầu đổi mới, phát
triển ngày càng đầy đủ, phù hợp hơn với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và thông lệ quốc tế từ năm 1995 đến nay.
Trong nhiệm kỳ khoá XI, tại các Hội nghị
lần thứ năm và thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, ban hành
các kết luận về vấn đề này cùng với vấn đề tiền lương và trợ cấp ưu đãi
người có công. Thực hiện Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị đã chỉ
đạo Ban cán sự đảng Chính phủ phối hợp với các ban đảng và các cơ quan
có liên quan tích cực tiến hành tổng kết lý luận và thực tiễn về phát
triển bảo hiểm xã hội ở nước ta, nghiên cứu xây dựng Đề án trình Trung
ương tại Hội nghị lần này với mong muốn ban hành được một nghị quyết
chuyên đề của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển lĩnh vực bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam thực sự trở thành một động lực đối với sự phát
triển bền vững của đất nước và thể hiện được tính nhân văn, bản chất tốt
đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đề nghị Trung ương bám sát vào Đề án và Tờ
trình của Bộ Chính trị, đồng thời căn cứ vào thực tiễn triển khai thực
hiện để phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, thống nhất nhận định
về tình hình phát triển lĩnh vực bảo hiểm xã hội ở nước ta, chỉ rõ những
kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và đặc biệt là
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm thành công, chưa thành công trong lĩnh
vực này. Phải chăng nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém là
do: Nhận thức, tư duy lý luận và thể chế về bảo hiểm xã hội còn chậm
được đổi mới, hoàn thiện; hệ thống luật pháp, chính sách, bộ máy tổ
chức, cán bộ đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ; số lượng lao động làm việc ở khu vực không có
quan hệ lao động còn lớn, dựa chủ yếu vào tiết kiệm của bản thân và mạng
lưới an sinh gia đình truyền thống trong khi thu nhập còn thấp, không
ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt còn lớn; xuất phát điểm còn thấp, sự
phát triển của nền kinh tế và thu chi ngân sách nhà nước còn nhiều khó
khăn?...
Từ tổng kết thực tiễn và sự phân tích, dự
báo một cách khoa học, với tầm nhìn xa tình hình phát triển kinh tế-xã
hội, ngân sách nhà nước và thu nhập của người dân trong trung và dài
hạn, Trung ương cần trao đổi, thống nhất về chủ trương, chính sách, biện
pháp tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội
trong thời gian tới. Tập trung xác định, làm rõ những quan điểm, mục
tiêu đổi mới; nội dung cải cách, nhất là các vấn đề như: Mở rộng diện
bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân;
bảo đảm cân đối tài chính bảo hiểm xã hội trong dài hạn; điều chỉnh tuổi
nghỉ hưu phù hợp với bối cảnh, tình hình mới; tăng cường sự liên kết và
hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội; kế thừa và phát triển
nguyên tắc điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối với tiền lương của
người đang làm việc; rút ngắn điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã
hội để được hưởng lương hưu... Chú ý đến cả khu vực công và tư; người
đang làm việc và người đã nghỉ hưu; nơi có quan hệ lao động và nơi chưa
có quan hệ lao động, nhất là đối với nông dân, người nghèo, người yếu
thế trong xã hội.
Đồng thời, căn cứ vào phạm vi, tính chất,
mức độ đổi mới trong nội dung Đề án, tính đồng bộ với Đề án cải cách
chính sách tiền lương và tạo sự đồng thuận xã hội giữa người đang làm
việc và người đã nghỉ hưu để thống nhất quyết định ban hành Nghị quyết
của Trung ương về cải cách hay chỉ là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính
sách bảo hiểm xã hội.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị Trung ương lần này diễn ra đúng
vào thời điểm giữa nhiệm kỳ khoá XII, trong bối cảnh sau 2 năm rưỡi nỗ
lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã có nhiều chuyển
biến tích cực và đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới, tốt đẹp hơn
cho sự nghiệp đổi mới. Đề nghị Trung ương và các đồng chí tham dự Hội
nghị phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo
luận kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án và xem xét,
quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai
mạc Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII. Chúc
Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn.