Từ khi ra
đời đến nay, Đảng ta luôn kiên định quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đó chính là nhân tố quan trọng góp phần
đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi như ngày hôm nay.
Từ ngày đầu chuẩn bị thành lập một chính
đảng vô sản thực sự cách mạng, chính đảng vô sản kiểu mới của giai cấp
công nhân khác với các Đảng xã hội - dân chủ Tây Âu thuộc Quốc tế II đã
biến chất sau khi Ăngghen mất, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh
chống lại những phần tử cơ hội chủ nghĩa không chỉ trên lĩnh vực lý
luận, những vấn đề về Cương lĩnh, đường lối của Đảng mà còn là những vấn
đề hết sức cơ bản về giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên.
|
Lê-nin tại Đại hội 3 Quốc tế Cộng sản tiến hành vào tháng 6 năm 1921. Ảnh: TƯ LIỆU |
Mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức Đảng và quần chúng ngoài Đảng
Theo V.I.Lê-nin, đường lối chính trị
quyết định đường lối tổ chức vì: “Cơ cấu tổ chức của bất kỳ một cơ quan
nào cũng do nội dung hoạt động của nó quyết định một cách tự nhiên và
tất nhiên” (1). Mục đích của phái kinh tế là đấu tranh chống bọn chủ để
tạo ra điều kiện có lợi trong việc bán sức lao động được giá cao hơn chứ
không phải là để thủ tiêu trật tự xã hội cũ, lật đổ chế độ chuyên chế,
thiết lập chế độ mới - chế độ Cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ hoàn toàn mọi
ách áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp và nguồn gốc sinh ra mọi bất công
trong xã hội. Những người theo phái kinh tế cho rằng: “đấu tranh kinh tế
là phương pháp cổ động chính trị có thể áp dụng một cách rộng rãi nhất,
rằng nhiệm vụ của chúng ta ngày nay là đem lại cho cuộc đấu tranh hoàn
toàn kinh tế một tính chất chính trị..vv...” (2). Quan điểm này của phái
kinh tế đã bị V.I.Lê-nin phê phán là: “- phản ánh một quan niệm chật
hẹp về nhiệm vụ của chúng ta, không những về mặt chính trị mà còn về mặt
tổ chức nữa.” (3). Về thực chất chúng coi Đảng là người đứng
ngoài quan sát phong trào tự phát của quần chúng chứ không phải là tổ
chức lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng. Do đó theo chúng,
không cần có một tổ chức Đảng tập trung trong phạm vi toàn quốc, một tổ
chức đảng vững mạnh có tính chiến đấu cao. Và tất nhiên, chúng không
đòi hỏi người đảng viên cần phải có trình độ cao hơn quần chúng bình
thường. V.I.Lê-nin chỉ rõ điều kiện của Đảng cách mạng trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ vì tính chất của
cuộc cách mạng ấy chi phối: “Cuộc đấu tranh chính trị của đảng dân chủ -
xã hội thì rộng lớn và phức tạp hơn rất nhiều so với cuộc đấu tranh
kinh tế của công nhân chống bọn chủ và chính phủ. Tổ chức của đảng dân
chủ - xã hội cách mạng cũng thế (và do đó) nhất thiết phải là một loại khác không giống với tổ chức đấu tranh kinh tế của công nhân.” (4).
Phái kinh tế chủ trương lập ra những tổ
chức công nhân có tính chất nghề nghiệp và vừa tầm với người công nhân
trung bình. Đối với V.I.Lê-nin thì ngược lại, Người đặc biệt chú ý đến
việc lập ra một tổ chức những người cách mạng, một tổ chức vững chắc,
tập trung và có tính chiến đấu cao. Chính lúc này, V.I.Lê-nin đã khẳng
định: “hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi
sẽ đảo ngược nước Nga lên!” (5). Như vậy, V.I.Lê-nin đã xác định một
cách rõ ràng, dứt khoát rằng Đảng là một tổ chức của những người cách
mạng tiên phong vì vậy, đảng viên của Đảng phải là những chiến sĩ cách
mạng có nhiệt tình cách mạng, có trình độ, năng lực cao hơn những người
công nhân bình thường. Họ phải là người có lý luận tiên tiến, ý thức tự
giác cao, biết vận động, lôi kéo quần chúng cùng tham gia hành động.
Trong điều kiện Đảng còn hoạt động bí mật thì đây càng là yêu cầu cấp
bách và càng đòi hỏi sự hy sinh, phấn đấu của những người đảng viên.
V.I.Lê-nin chủ trương phải bồi dưỡng đảng viên của Đảng tiến lên ngang
trình độ của người trí thức cách mạng. Số này được tuyển lựa từ cuộc đấu
tranh của quần chúng: “Chúng ta có đủ sức để làm việc đó, chính là vì quần chúng tự phát đứng lên hành động cũng làm xuất hiện từ trong hàng ngũ họ
một số ngày càng đông những “người cách mạng chuyên nghiệp” (nếu chúng
ta không định mời bằng mọi cách công nhân đứng giẫm chân tại chỗ)” (6).
Vì vậy, theo V.I.Lê-nin chúng ta phải chú ý chủ yếu đến việc nâng công
nhân lên trình độ những người cách mạng, chứ không phải là chúng ta tự:
“hạ thấp những nhiệm vụ của mình xuống ngang trình độ hiểu biết của
những lớp quần chúng lạc hậu nhất” (7) như ý muốn của báo tự do.
Người cộng sản không phải chỉ tự nâng
cao trình độ của bản thân mà còn có trách nhiệm giáo dục, giác ngộ quần
chúng: “phổ biến trong quần chúng công nhân cái ý thức ngày càng sáng rõ
đã đạt được bằng cách đó” (8). Điều này là hết sức quan trọng vì nếu
thiếu sự vận động từ những người cộng sản thì công nhân không thể tự
thức tỉnh được: “Như chúng tôi đã nói, công nhân trước đây không thể có
ý thức dân chủ - xã hội được. Ý thức này chỉ có thể là từ bên ngoài đưa
vào.” (9). Chính vì vậy, đảng viên của Đảng phải có đủ trình độ lý luận
cách mạng, có niềm tin vào sự tất thắng của cách mạng mới có thể giác
ngộ công nhân, truyền ý thức tự giác vào phong trào công nhân được.
V.I.Lê-nin kịch liệt phê phán sự sùng
bái tính tự phát của phong trào công nhân đang tồn tại trong nước Nga và
Người khẳng định: “mọi sự sùng bái tính tự phát của phong trào
công nhân, mọi việc coi nhẹ vai trò của “yếu tố tự giác”, coi nhẹ vai
trò của đảng dân chủ - xã hội, thì đều có nghĩa - dù người ta muốn hay không muốn - là tăng cường ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản đối với công nhân”.
(10). Người yêu cầu những người cách mạng phải đặc biệt chú ý đến vấn
đề này vì công việc thực sự của họ: “không phải là biện hộ cho việc hạ
thấp người cách mạng xuống ngang hàng người thủ công nghiệp, mà phải nâng người
thủ công nghiệp lên ngang hàng những người cách mạng.” (11). V.I.Lê-nin
yêu cầu người đảng viên cộng sản phải là người vững vàng, không do dự
trong các vấn đề mà lý luận cũng như thực tiễn đặt ra. Họ phải là người
nhìn xa, trông rộng, có khả năng đưa ra những kế hoạch có quy mô làm cho
kẻ thù cũng phải kính nể chứ không phải giống như người thư ký hội đồng
công liên mà phái kinh tế mơ tưởng. Nhiệm vụ trước mắt và cấp thiết của
những người cách mạng lúc này là: “lập ra một tổ chức những người cách mạng
có khả năng bảo đảm cho cuộc đấu tranh chính trị có được nghị lực, tính
triệt để và tính liên tục.” (12). V.I.Lê-nin đã chỉ rõ yêu cầu đối với
người đảng viên cộng sản là tính tiên phong về lý luận và hoạt động thực
tiễn, biết tổ chức, vận động quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh
chống lại kẻ thù, thực hiện mục đích, lý tưởng của Đảng và giai cấp công
nhân.
Mối quan hệ giữa tổ chức đảng và đảng viên
Sau khi phái kinh tế bị đánh bại, Đại
hội II của Đảng công nhân xã hội - dân chủ Nga (1903) được triệu tập.
Trong Đại hội này V.I.Lê-nin lại phải đấu tranh với bọn men-sê-vích mà
đứng đầu là Mác-tốp, Ác-xen-rốt. Quá trình đấu tranh trong Đại hội thực
chất là xoay quanh “Dự thảo Điều lệ Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga”
do V.I.Lê-nin và Mác-tốp đưa ra. Nói cách khác, đây là cuộc đấu tranh
nhằm xác định tư cách đảng viên của Đảng và mối quan hệ của đảng viên đó
với tổ chức đảng. Quan điểm của V.I.Lê-nin về người đảng viên cộng sản,
mối quan hệ của đảng viên với tổ chức đảng đưa ra trong bản dự thảo
Điều lệ Đảng trình bày trước Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ- xã
hội Nga là nội dung rất quan trọng, là tiêu điểm trong cuộc đấu tranh
tại Đại hội.
Theo V.I.Lê-nin, muốn người đảng viên
gắn bó với tổ chức Đảng thì người đó phải “tự mình tham gia” vào một tổ
chức, chịu sự quản lý, giám sát và kiểm tra của tổ chức đảng. Có như vậy
mới đánh giá được phẩm chất cách mạng, năng lực công tác của đảng viên
một cách chính xác. Nói cách khác, đó mới là cơ sở để đảng viên chứng tỏ
tính tiên phong, gương mẫu của mình cả về lý luận cũng như hoạt động
thực tiễn và thể hiện sự liên hệ chặt chẽ giữa đảng viên và tổ chức
đảng. Công thức của Mác-tốp cho thấy bản chất đích thực của những kẻ cơ
hội chủ nghĩa. Thực chất là Mác-tốp mưu toan biến Đảng thành một tổ chức
lỏng lẻo theo kiểu câu lạc bộ, không có sự đoàn kết. Nếu Đảng chỉ bao
gồm những phần tử riêng lẻ tự xưng là đảng viên mà giữa họ không có quan
hệ về tổ chức thì Đảng đó sẽ hoạt động như thế nào? Ở đây Mác-tốp đã
lẫn lộn về vấn đề đảng viên và người ngoài Đảng, vấn đề quan hệ giữa
đảng viên với tổ chức Đảng. Nói đúng hơn là Mác-tốp đã cố tình xoá nhoà
ranh giới giữa những người có tổ chức với những phần tử không có tổ
chức, những người hoạt động có sự lãnh đạo, chỉ đạo với những người lạc
hậu, bất trị không có tổ chức. V.I.Lê-nin đã coi quan điểm đó của
Mác-tốp là hạ thấp tư cách người đảng viên: “Mỗi người tham gia bãi công đều phải được quyền tự xưng là đảng viên ư? Do luận điểm đó, đồng chí Mác-tốp đã đẩy sai lầm của mình đến chỗ phi lý, vì đã hạ thấp chủ nghĩa dân chủ- xã hội xuống ngang với chủ nghĩa bãi công” (13).
Theo V.I.Lê-nin người đảng viên phải gắn
với một tổ chức đảng vì đảng viên không chỉ là một cá thể riêng rẽ mà
họ còn gắn với tổ chức, có quan hệ chặt chẽ với tổ chức bởi: “chúng ta
không thể đưa ra một định nghĩa nào khác về đảng viên, nếu không muốn
rời bỏ nguyên tắc của chế độ tập trung” (14). Chừng nào mà người công
nhân còn tồn tại theo kiểu một cá nhân riêng lẻ thì chừng đó họ còn bị
cô lập và thiếu sức mạnh. Chỉ có tổ chức, chỉ có sự tập trung theo
nguyên tắc chặt chẽ thì khi đó họ mới là nguồn sức mạnh vô địch. Lúc này
vai trò của tổ chức phải được đặt lên trên vai trò của cá nhân và do
vậy, họ tự nguyện phục tùng tổ chức, tạo thành một khối thống nhất trong
thực tế. V.I.Lê-nin còn chỉ rõ đối với công nhân, không phải chỉ có
Đảng mới là tổ chức duy nhất để họ tham gia hoạt động, tuy nhiên điều
cần nhấn mạnh là: “đảng, đội tiên phong của giai cấp, phải hết sức có tổ chức”
(15). Đội ngũ đảng viên của Đảng phải là những người gắn bó với tổ chức
chứ không phải là những cá nhân đơn lẻ vì như vậy sẽ rơi vào tình trạng
hỗn loạn: “vấn đề chính là phải triệt để áp dụng nguyên tắc tổ chức
hoặc là thừa nhận tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ” (16). Tổ chức của
Đảng càng chặt chẽ, càng mạnh mẽ bao nhiêu thì uy tín sẽ càng cao bấy
nhiêu và công tác vận động quần chúng sẽ thực hiện có hiệu quả cao và sự
thắng lợi của cách mạng sẽ nhanh trở thành hiện thực: “các tổ chức đảng
của chúng ta bao gồm những ngưởi dân chủ - xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít có tình trạng dao động và không kiên định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối với những người trong quần chúng
công nhân chung quanh đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng, sẽ càng rộng
rãi, càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu.” (17).
Điều này cho thấy nếu một Đảng không
được sự ủng hộ của quần chúng, nếu đảng viên của Đảng không được sự tín
nhiệm của quần chúng nhân dân thì chắc chắn Đảng đó, đảng viên đó không
thể là người cộng sản chân chính được. V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Muốn
trở thành một Đảng dân chủ - xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp.”
(18). Điều này đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản phải luôn hiểu rằng việc
xây dựng tổ chức của Đảng mạnh mẽ, chặt chẽ; luôn giữ mối liên hệ với
quần chúng là vấn đề hết sức quan trọng và đây là thứ vũ khí sắc bén
nhất của chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà V.I.Lê-nin hằng
mong muốn: “chúng ta phải hết sức giữ lấy mối liên hệ thống nhất trong
đảng của tất cả những người dân chủ- xã hội Nga, mối liên hệ đã được
thiết lập sau bao nhiêu cố gắng; và bằng cách làm việc ngoan cường và có
hệ thống, chúng ta phải làm cho toàn thể đảng viên, và nhất là công
nhân, hiểu được đầy đủ, một cách tự giác, những nhiệm vụ của người đảng
viên.” (19).
Một số vấn đề về mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đội ngũ đảng
Đảng viên là nhân tố cấu thành tổ chức
đảng, số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ đảng viên quyết định sự tồn
tại của Đảng. Tuy nhiên, cần coi trọng chất lượng hơn là chạy theo số
lượng vì: “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm
vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên
mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo
đội tiền phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa
vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó
lên trình độ tiên tiến ấy” (20). Điều này được thực tế chứng minh kể cả
khi Đảng giành được chính quyền: “phải thừa nhận rằng hiện nay chính
sách vô sản của đảng không phải được quyết định bởi số lượng đảng viên,
mà bởi uy tín to lớn vô song của bộ phận đảng viên ít ỏi mà người ta có
thể gọi là đội cận vệ kỳ cựu của đảng.” (21). Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, đảng viên của Đảng thường được giao phó những trọng trách cao
trong bộ máy Nhà nước. Những kẻ cơ hội tìm mọi cách chui vào Đảng để
trục lợi, làm cho bộ máy Đảng cũng như Nhà nước trở nên xa lạ với quần
chúng nhân dân. Chính vì vậy, V.I.Lê-nin càng quan tâm đến chất lượng
đội ngũ đảng viên của Đảng. Người viết: “Đảng độc nhất nắm chính quyền
trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc
thanh trừ “bọn luồn lọt vào đảng” ra khỏi hàng ngũ của mình, chứ không
quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên, đó chính là đảng chúng ta,
đảng của giai cấp công nhân cách mạng.” (22).
Với chủ trương như vậy, việc kết nạp
đảng viên mới phải được thực hiện hết sức nghiêm túc vì: “Chúng ta cần
có những đảng viên mới không phải để quảng cáo mà là để làm việc thật
sự.” (23). Điều này không có nghĩa là V.I.Lênin coi thường vấn đề số
lượng đảng viên mà ở đây Lê-nin muốn nhấn mạnh đến yêu cầu về chất lượng
đội ngũ đảng viên. Đội ngũ đảng viên của Đảng không những phải có trình
độ cao hơn quần chúng mà còn phải liên hệ mật thiết với quần chúng bởi
đây chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng: “Quần chúng lao động
ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó.” (24).
V.I.Lê-nin luôn nhắc nhở những người
đảng viên cộng sản rằng uy tín của từng đảng viên, uy tín của toàn Đảng
có đựơc là quần chúng thừa nhận hay không phụ thuộc rất nhiều vào tấm
gương của người đảng viên trong cuộc sống. Họ phải luôn là người đi đầu
trong bất cứ nhiệm vụ gì mà Tổ quốc cần: “Không gì có thể làm tăng thêm
uy tín của đảng cộng sản ở thành thị, nâng cao lòng kính phục của những
người công nhân ngoài đảng đối với những người cộng sản, bằng những ngày
thứ bảy cộng sản ấy” (25).
Không những quan tâm đến vấn đề chất
lượng đội ngũ đảng viên, Lê-nin còn đặc biệt chú ý đến vấn đề tạo nguồn
phát triển đảng và theo Người đây cũng là con đường giữ mối liên hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân. Theo Lê-nin đối tượng chủ yếu để phát
triển đảng là quần chúng tích cực trong giai cấp công nhân và nông dân:
“Các đồng chí công nhân và nông dân ngoài đảng, các đồng chí hãy gia
nhập đảng!” (26). Lời kêu gọi này của Lê-nin thể hiện rõ mối quan tâm
của Người đối với công tác phát triển đảng, điều cần chú ý cần phân biệt
rõ những người vào Đảng với động cơ trong sáng với những kẻ cơ hội:
“Chúng ta chỉ kêu gọi vào đảng, với một số lượng đông đảo, những công
nhân bình thường, và nông dân nghèo, nông dân lao động thôi, chứ không kêu gọi những nông dân đầu cơ vào đảng.” (27).
Người đảng viên phải có trình độ kiến
thức cao hơn những quần chúng mà mình lãnh đạo. Đó là đòi hỏi bắt nguồn
từ bản chất của Đảng vì Đảng là đội tiên phong của toàn bộ giai cấp.
Người đảng viên không có năng lực và lạc hậu về trình độ thì rất bất cập
trong công việc. Đứng trước sự vận động của cuộc sống, trước nhiều khả
năng mà cuộc sống đặt ra nếu không có trình độ nhất định thì không thể
hoàn thành được nhiệm vụ, không làm tròn cương vị của người lãnh đạo
quần chúng. Yêu cầu này càng trở nên cấp bách khi Đảng trở thành Đảng
cầm quyền: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra” (28). Để có được trình độ như vậy cần phải ra sức
học tập và điều này lại càng quan trọng đối với thế hệ trẻ: “nhiệm vụ
của thanh niên nói chung, và của đoàn thanh niên cộng sản và các tổ chức
khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ. Nhiệm vụ đó là: học tập”
(29).
Người đảng viên cộng sản phải là người
gương mẫu đi đầu trong đấu tranh cách mạng, phải nêu gương trước quảng
đại quần chúng. Vì vậy, mỗi đảng viên cộng sản phải là một tấm gương về
lao động thật sự cộng sản chủ nghĩa, phải là người lao động có kỷ luật
và có năng suất cao. V.I.Lê-nin coi việc nêu gương lao động là một trong
những vấn đề mấu chốt để làm tăng thêm uy tín của Đảng, tăng thêm sự
kính phục của những công nhân ngoài Đảng đối với người đảng viên cộng
sản. Đây là con đường ngắn nhất để thu phục quần chúng nhân dân tin theo
sự lãnh đạo của Đảng. V.I.Lê-nin đòi hỏi người đảng viên cộng sản phải
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phải khắc phục tệ quan liêu và các hành
vi xâm phạm đến lợi ích của nhân dân. Người đã nhiều lần chỉ rõ: Đảng
là đội tiên phong của giai cấp chứ không phải là toàn bộ giai cấp. Trong
mối quan hệ với giai cấp, đảng viên chỉ là một giọt nước trong đại
dương nhân dân. Chính vì vây, nếu không liên hệ chặt chẽ với quần chúng
nhân dân, không được sự ủng hộ của nhân dân thì Đảng không thể lãnh đạo,
quản lý được xã hội. Sức mạnh của Đảng chính là việc mỗi đảng viên của
Đảng phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Khi đánh giá một
Đảng bộ, theo V.I.Lê-nin phải căn cứ vào chỗ Đảng bộ đó có liên hệ chặt
chẽ với quần chúng hay không? Có lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham
gia phong trào hay không? Trong điều kiện Đảng cầm quyền, V.I.Lê-nin đã
nói rất nhiều lần về vấn đề những người đảng viên cộng sản phải khắc
phục tệ quan liêu, bệnh tham nhũng, Người nói: chúng ta đang bị bệnh
quan liêu đục khoét và bệnh này rất khó khắc phục. V.I.Lê-nin coi bệnh
quan liêu là kẻ thù của Nhà nước vô sản và đánh giá nó còn nguy hiểm hơn
so với bọn phản cách mạng công khai. Theo Người, nếu người cộng sản mắc
bệnh quan liêu, xa rời thực tế mà lại đảm nhận một chức vụ nào đó trong
bộ máy Đảng, Nhà nước thì sẽ là vô cùng nguy hiểm vì anh ta sẽ khiến
quần chúng nhân dân ngày càng xa rời Đảng. Muốn trị bệnh này tận gốc chỉ
có thể dựa vào quần chúng, dựa vào mối liên hệ của đảng viên với quần
chúng.
Tôn trọng ý kiến của quần chúng nhân dân - cơ sở để sàng lọc đội ngũ đảng viên.
Vấn đề duy trì kỷ luật kỷ luật Đảng,
sàng lọc đội ngũ đảng viên là vấn đề được V.I.Lê-nin quan tâm và thuật
ngữ mà V.I.Lê-nin thường dùng là “thanh đảng”. Theo V.I.Lê-nin dựa vào
kinh nghiệm và ý kiến của quần chúng ngoài Đảng là điều quý báu và quan
trọng nhất. Đảng là người lãnh đạo quần chúng, quyết định đời sống và
mọi mặt sinh hoạt của quần chúng nhân dân thì quần chúng nhân dân có
nguyện vọng và có quyền kiểm tra và giám sát mọi hoạt động của Đảng. Hơn
nữa quần chúng có đầy đủ năng lực và sự nhiệt tình trong công tác xây
dựng Đảng. Chỉ có tham khảo ý kiến của quần chúng thì Đảng mới có thái
độ khách quan tiến hành thanh Đảng được đúng đắn, chính xác. Việc dựa
vào quần chúng nhân dân để tiến hành thanh Đảng không chỉ tiến hành ở cơ
sở mà còn ở cấp lãnh đạo nữa. V.I.Lê-nin rất tin tưởng ở bản năng tài
tình về đánh giá, nhận xét đảng viên của quần chúng lao động, Người cho
rằng: “đối với việc đánh giá người và gạt bỏ những kẻ “chui vào đảng”,
bọn “làm quan”, bọn đã bị “quan liêu hoá”, thì những lời chỉ dẫn của
quần chúng vô sản ngoài đảng và trong nhiều trường hợp thì cả những lời
chỉ dẫn của quần chúng nông dân ngoài đảng nữa, rất là quý báu” (30).
Trong việc vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng, V.I.Lênin luôn
tin tưởng vào tính sáng tạo và tinh thần cách mạng của quần chúng nhưng
Người không quên nhắc nhở các đảng viên của Đảng hết sức tránh thiên
hướng theo đuôi quần chúng. Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhưng
không phải hạ thấp trình độ của Đảng xuống ngang với trình độ của quần
chúng mà là phải tìm mọi cách nâng trình độ của quần chúng lên. Như vậy,
dựa vào ý kiến của quần chúng trong vấn đề thanh đảng chính là lắng
nghe mọi ý kiến đóng góp của quần chúng một cách có phê phán, phân biệt
rõ đúng sai: “Dĩ nhiên, chúng ta sẽ không nghe theo tất cả những ý kiến
của quần chúng, vì quần chúng cũng đôi khi - nhất là trong những năm họ
bị mệt mỏi phi thường, bị kiệt sức vì những gánh nặng và những nỗi đau
khổ quá sức chịu đựng - bị lôi kéo bởi những tư tưởng không có chút gì
là tiên tiến cả” (31). Thế nên, V.I.Lê-nin yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên
của Đảng phải hết sức coi trọng việc học tập và theo Người đó là cách
tốt nhất để những người cộng sản làm chủ được công việc của mình là quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội: “Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng
ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập,
hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức
ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa” (32).
Yêu cầu đó của V.I.Lê-nin đối với đội
ngũ đảng viên của nước Nga Xô- viết cũng chính là yêu cầu bắt buộc đối
với tất cả chúng ta - những đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi
ra đời đến nay, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin và đó chính là nhân tố quan trọng góp phần đưa cách mạng Việt Nam
đi tới thắng lợi như ngày hôm nay. Trong công tác xây dựng Đảng mà cụ
thể ở đây là các vấn đề về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng và sàng
lọc đội ngũ đảng viên, Đảng ta luôn đòi hỏi mỗi đảng viên của Đảng phải
là người chiến sĩ tiên phong của cách mạng như Bác đã dạy: “Là những
người đày tớ thật trung thành của nhân dân” (33). Đảng viên của Đảng
không chỉ là người hoạt động tích cực trong mọi lĩnh vực mà còn phải là
người ưu tú nhất trong cơ quan, đơn vị.
Việc nghiên cứu, vận dụng, phát triển
những quan điểm của V.I.Lê-nin trong giai đoạn hiện nay khi mà công cuộc
đổi mới đang đi vào chiều sâu lại càng vô cùng cấp bách. Đảng đòi hỏi
mỗi đảng viên phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, biết đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Đảng viên phải tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng và làm tốt công tác vận động quần chúng. Tuyệt đối không đòi hỏi
đặc quyền đặc lợi, không được có thái độ kiêu ngạo cộng sản hoặc như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói là: “Cán bộ mà lên mặt quan cách mạng thì mọi
việc đều lủng củng”. (34).
Việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của
V.I.Lê-nin về giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên không
những là nhiệm vụ của Đảng ta mà suy rộng ra đó còn là nhiệm vụ của toàn
dân ta vì từ lâu Đảng đã được nhân dân thừa nhận với tiếng gọi: Đảng ta - Đảng của chúng ta./.
--------------------------------
1. (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12) V.I.Lê-nin: Toàn tập, t. 6 Nxb Tiến bộ, M, 1975, tr. 127; 126; 126; 143; 162; 142; 135; 34; 38; 48; 162; 134.
2. (13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (22), (23), (26), (27), (28), (29) V.I.Lê-nin, Toàn tập,
t. 8, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tr. 290 – 291; 53; 286; 288; 288 – 289;
293; 489 – 490; 298- 290; 24; 255; 256; 257; 256; 362; 354.
3. (24), (25) V.I.Lê-nin, Toàn tập, t. 39, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tr. 257; 428.
4. (30), (31), V.I.Lê-nin, Toàn tập, t. 44, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr. 152; 152.
5. (32), V.I.Lê-nin, Toàn tập, t. 45, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr. 444.
6. (33), Hồ Chí Minh, Toàn tập, bộ 15 tập, tập 7, tr. 379.
7. (34), Hồ Chí Minh, Toàn tập, bộ 15 tập, tập 5, tr. 167.