Ý nghĩa và
tầm vóc của sự kiện này không những đã vượt qua khuôn khổ của một cuộc
tổng khởi nghĩa, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, thiết lập một nhà
nước độc lập mà còn đặt nền tảng cho một chế độ xã hội mới đối với dân
tộc ta, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại được mở ra từ
thắng lợi của cách mạng tháng Mười - 1917, vừa đáp ứng khát vọng ngàn
đời của dân tộc: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ, hiện thực hóa mục
tiêu giải phóng giai cấp - xóa áp bức, bóc lột, giải phóng xã hội, xóa
bất công, giải phóng con người, để mọi người dân Việt Nam được sống
trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là
thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Càng hiểu sâu sắc tầm vóc của cách mạng tháng Tám,
chúng ta càng biết ơn vô hạn với công lao của Bác Hồ vĩ đại, người đã có
công tìm ra con đường duy nhất đúng để giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người!
|
Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19/8/1945.(Ảnh: Tư liệu – TTXVN)
|
Chúng ta cùng nhau ôn lại quá trình tìm con đường cứu nước mới của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc:
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 trong
gia đình nhà nho nghèo yêu nước quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An, khi còn nhỏ tuổi mang tên Nguyễn Sinh Cung, đến tuổi đi
học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan,
đau xót trước tình cảnh lầm than của đồng bào nên Người đã sớm hun đúc ý
chí đánh đuổi thực dân Pháp, cứu dân, cứu nước.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuất dương đi
tìm con đường cứu nước mới trong tình cảnh nước ta đang chìm trong cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Năm 1858, ngay khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược nước ta, với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp chủ trương
đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước ta đã liên tiếp
vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược, đúng như lời tuyên bố đanh thép
của Nguyễn Trung Trực trước khi bị quân Pháp xử tử: “Bao giờ Tây nhổ hết
cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây!”.
Phong trào Cần Vương thất bại lại liên
tiếp bùng lên hàng trăm cuộc khởi nghĩa của nông dân, mà tiêu biểu nhất
là các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… Các phong
trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước đều bị thất bại!
Sau thất bại của phong trào Cần Vương,
chịu ảnh hưởng của phong trào Duy Tân của Nhật Bản và cách mạng Tân Hợi
của Trung Quốc, đã lôi cuốn nhiều sĩ phu yêu nước hướng ra nước ngoài
tìm con đường cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản, tiêu biểu là Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh.
Là ngọn cờ phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX, lúc đầu, cụ Phan Bội Châu chủ
trương lập chế độ quân chủ lập hiến; 1904, lập Duy Tân hội để khôi phục
độc lập dân tộc. Năm 1912, cụ Phan Bội Châu từ bỏ lập trường quân chủ
lập hiến chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương lập ra
Việt Nam quang phục hội, nhờ Nhật đuổi Pháp, thành lập cộng hòa dân quốc
Việt Nam, con đường cứu nước của cụ Phan Bội Châu thất bại mà nguyên
nhân được tác giả Trần Dân Tiên trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch”, đã nhận xét: Con đường đó chẳng khác gì “đưa
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”[1].
Trong lời tựa của “Phan Bội Châu niên biểu”, cụ Phan đã tự phán: “Than
ôi! Lịch sử của tôi mà làm gì chỉ là một bộ lịch sử toàn thất bại!”[2]
Còn nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành
Phan Châu Trinh đã kịch liệt tố cáo tội ác của bọn quan lại phong kiến,
kết tội tên vua bù nhìn Khải Định, lên án tội ác của thực dân Pháp. Cụ
Phan Châu Trinh đưa ra đường lối cải lương, phản đối bạo lực “bạo lực
tắc tử”, chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, muốn dựa
vào Pháp để chống phong kiến. Con đường của cụ Phan Bội Châu như tiến
sĩ luật khoa Phan Văn Trường, ông làm trạng sư ở Paris, là người Việt
Nam đầu tiên tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, ông cho đăng “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” của Mác-Ăngghen trên báo L’Annam mà ông là chủ bút,
ông đã nhận xét con đường của cụ Phan Châu Trinh là “ngày thơ”[3],
GS Trần Văn Giàu nhận xét: “Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) tiếng tăm lừng
lẫy, không ai không tin rằng cụ yêu nước chân thành, cụ lại chọn con
đường “ỷ Pháp cầu tiến”, nghĩa là Pháp - Việt đề huề, nghĩa là một ngõ
cụt”[4].
Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại. Trần Dân Tiên đánh
giá thất bại của con đường này là: vì sai lầm chẳng khác gì “xin giặc rủ
lòng thương”[5]. Lịch sử dân tộc ta những thập kỷ đầu thế kỷ XX đã chứng minh sự thất bại cay đắng của con đường cứu nước này!
Sau thất bại của các phong trào Cần
Vương, Duy Tân, của các cuộc khởi nghĩa của nông dân đến thất bại của
các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản vào những năm
đầu thế kỷ XX đã thể hiện cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn
ra sâu sắc và trầm trọng đúng như Bác Hồ đã tổng kết: “Tình hình đen
tối như không có đường ra”. Còn nhà yêu nước Phan Bội Châu đã diễn đạt
bằng hình tượng: “Trời khuya đất ngủ, khói độc mây mù”. Vấn đề tìm lối
ra cho cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước là nhu cầu vô cùng
cấp bách của dân tộc ta!
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuất dương đi
tìm con đường cứu nước mới. Quá trình đi tìm con đường cứu nước mới của
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc trải qua những dấu mốc quan trọng
sau:
- Dù rất khâm phục lòng yêu nước nồng
nàn, tinh thần chiến dấu kiên cường chống thực dân Pháp và triều đình
phong kiến thối nát, ươn hèn, làm tay sai cho quân xâm lược nhưng Nguyễn
Ái Quốc đã nhận ra những hạn chế, những nguyên nhân thất bại của các
phong trào yêu nước đương thời, Người đã vượt qua những hạn chế tầm nhìn
của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
quyết đi tìm con đường cứu nước mới với ý thức xem các nước làm thế nào
rồi trở về giúp đồng bào.
- Sau 10 năm bôn ba, khảo sát ở các nước
tư bản phát triển như Pháp, Mỹ, Anh… và một số nước là thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân, Người đã nhận thức sâu sắc những hạn chế của các
cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ…: là những “cuộc cách mạng không đến
nơi”, không giải phóng được công nông và quần chúng lao động. Người hiểu
sâu sắc bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người ví chúng như
con đỉa hai vòi: một vòi hút máu (bóc lột, áp bức) nhân dân lao động
chính quốc, một vòi áp bức, bóc lột tàn bạo nhân dân các nước thuộc địa.
Năm 1919, thay mặt Hội những người Việt
Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách 8 điểm đến Hội nghị các
nước thắng trận họp ở Véc xây (Pháp) nhưng Tổng thống 4 nước thắng trận ở
Hội nghị này, trong đó có tổng thống Mỹ Uyn xơn (Wilson), tác giả của
chương trình 14 điểm về quyền dân tộc tự quyết, nhưng 4 vị tổng thống
này không ai thèm đếm xỉa đến bản yêu sách đòi những quyền dân sinh dân
chủ tối thiểu của Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện này giúp Người hiểu rõ: “Chủ
nghĩa Uyn xơn chỉ là một trò bịp bợm lớn…” và muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản
thân mình”[6].
- Thắng lợi của cách mạng tháng Mười
Nga vĩ đại (1917) đã mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người: thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng vô sản, “Cách mạng tháng Mười vĩ đại đã làm rung chuyển thế giới,
trong đó có Việt Nam…”[7].
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với
những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản
hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế
thứ 3) ra đời có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng
những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy
rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập
trường của Lênin và Quốc tế thứ 3. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng
quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Người đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tán thành Quốc thế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng
dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản!
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, bản
Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý
của thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Giải phóng
giai cấp, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng xã hội, xóa bất công, giải
phóng con người, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người!
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc cùng
các đồng chí của mình đẩy mạnh các hoạt động: truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin, lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở các lớp huấn luyện
đội ngũ cán bộ nòng cốt, đưa họ về nước tuyên truyền giác ngộ, tập hợp
quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và các
phong trào yêu nước phát triển sâu rộng. Từ năm 1926 đến 1929, Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển từ 300 lên 1700 hội viên, nếu kể
cả hội viên dự bị thì có gần 3000 người. Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm
kinh tế, chính trị trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu
nước lớn mạnh nhất - chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Sau khi thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên (6/1925), Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo các bài giảng
cho việc mở các lớp huấn luyện chính trị cán bộ. Đến năm 1927, các tập
bài giảng này được in thành sách, lấy tên là “Đường cách mệnh”. Từ khi
đọc sơ thảo của Lênin năm 1920 đến khi xây dựng nội dung cuốn sách này
chính là quá trình Nguyễn Ái Quốc phác thảo Đường cách mệnh” - đường lối
cứu nước. Tác phẩm này có những nội dung cơ bản sau:
- Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng
triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng - mục tiêu và con đường đi
lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội. Muốn xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua
hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
+ Về lực lượng cách mạng: Công nông là
gốc của cách mạng, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của
công nông. Cách mạng là việc chung của cả dân chúng (toàn dân) chứ không
phải là việc của một, hai người.
+ Về phương pháp cách mạng: Giải phóng
gông cùm cho đồng bào, cho nhân loại là công việc “to tát” cho nên phải
“dùng hết sức”, phải “quyết tâm làm thì chắc được”, “thà chết tự do hơn
sống làm nô lệ” nhưng “phải biết cách làm thì mới chóng”. “Cách mệnh
trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Tiếp thu tư tưởng khởi nghĩa vũ
trang quần chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm
này, Nguyễn Ái Quốc phát triển tư tưởng “dân khí mạnh thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại nổi”, “đời này làm chưa xong, đời sau
nối theo làm thì phải xong”, do đó, về phương pháp cách mạng trong
Đường cách mệnh là quan điểm cách mạng bạo lực. Nguyễn Ái Quốc chỉ ra
những thiếu sót của những người đi trước như: “Xúi dân bạo động mà không
bày cách tổ chức”, hay “làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự
cường”. Phương pháp cách mạng đòi hỏi phải có sách lược, mưu chước, kế
hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa.
+ Đoàn kết quốc tế: Đường cách mệnh chỉ
rõ: “cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; ai làm
cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam. “Chúng ta cách mệnh
thì càng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế gian để
chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. “An Nam muốn cách mệnh thành
công thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh đã
nhắc lại khẩu hiệu của quốc tế thứ ba: “Giai cấp vô sản và các dân tộc
bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại!”
Trong tư tưởng đoàn kết quốc tế, Nguyễn
Ái Quốc nhấn mạnh hai điều: Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình
phải tự giúp mình đã, lấy sức ta mà giải phóng cho ta; Cách mạng giải
phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng
lợi của cách mạng vô sản. Đây là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường của cách mạng Việt Nam.
+ Cách mạng trước hết phải có Đảng cách
mệnh, Đảng có vững thì mới thành công. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam!”.
Những nội dung cơ bản của Đường cách
mệnh được Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình truyền bá, giảng dạy,
huấn luyện cho cán bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sơ thảo đường
lối cứu nước này đã được Hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
tuyên truyền sâu rộng, tập họp tổ chức quần chúng thúc đẩy phong trào
cách mạng của công nhân, nông dân từ 1925 đến 1930 lên cao. Phong trào
cách mạng dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách
mạng, có đủ bản lĩnh để lãnh đạo cuộc cách mạng của toàn dân tộc. Những
cán bộ tiêu biểu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã sớm nắm bắt
được nhu cầu lịch sử này của giai cấp công nhân và của dân tộc.
17/6/1929, Đông Dương cộng sản đảng thành lập ở Hà Nội. Mùa thu 1929, An
Nam cộng sản đảng ra đời. ngày 1/1/1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn
ra đời từ trong phái “tả” của Đảng Tân Việt.
Những người cộng sản của ba tổ chức này
đã đánh giá về nhau không đúng nên dẫn đến những hoạt động phân tán và
chia rẽ về tổ chức của phong trào. Khắc phục sự phân tán, chia rẽ về mặt
tổ chức là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản
và cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách mạng Việt Nam lúc này. Ngày
27/10/1929, quốc tế cộng sản đã gửi chỉ thị cho các nhóm cộng sản Việt
Nam, nói rõ: ở Đông Dương cần có một Đảng cộng sản duy nhất. Nhận được
chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu của
Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng bàn việc hợp nhất. Từ
ngày 3 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng họp ở bán đảo
Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự tham
gia của 2 đại biểu Đông Dương cộng sản đảng, 2 đại biểu An Nam cộng sản
đảng và 2 đại biểu ngoài nước. Hội nghị nhất trí với đề xuất của Nguyễn
Ái Quốc, hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất,
lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã nhất trí thông qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ văn
tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, đây là Cương lĩnh và Điều lệ
đầu tiên của Đảng ta.
Những nội dung chủ yếu của các văn kiện trên là:
- Cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng” và “thổ địa cách mạng”… để đi tới xã hội cộng sản.
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
- Thâu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao
cho Chính phủ công nông binh.
- Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho nông dân nghèo.
- Tổ chức quân đội công nông.
- “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt v.v… để kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và
tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ…
Trong khi liên lạc với các giai cấp phải
rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà
đi vào đường thỏa hiệp. Trong khi tuyên truyền các khẩu hiệu nước An
Nam độc lập phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp Pháp”[8].
- Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24/2/1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn cũng hợp nhất vào Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc quy tụ 3 tổ chức cộng sản thành một
đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam và nhất trí thông qua cương lĩnh,
điều lệ đầu tiên - thông qua được đường lối cứu nước, cứu dân đúng đắn,
hợp quy luật, hợp lòng người, dẫn đến sự thống nhất về tư tưởng và hành
động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên truyền thống đoàn kết của
Đảng và dân tộc từ đó về sau.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và thông
qua cương lĩnh - Đường lối cứu nước đúng đắn - đường lối giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước, đúng như sự đánh giá của nhà tư tưởng, nhà yêu nước
Phan Bội Châu: “May thay! Đương giữa lúc khí độc mây mù, thình lình có
trận gió xuân thổi tới. Chính giữa lúc trời khuya đất ngủ, thình lình mà
có một tia thái dương mọc ra. Trận gió xuân ấy, tia thái dương ấy là
chủ nghĩa xã hội vậy”[9].
Sau khi ra đời, Đảng ta công bố Chính
cương và Sách lược vắn tắt, công bố đường lối giành độc lập dân tộc, xóa
áp bức, bóc lột mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã được
nhân dân Việt Nam đồng tình, ủng hộ. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đã lựa
chọn sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đi
theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường
mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn.
15 năm sau khi ra đời, với đường lối cứu
nước đúng đắn, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo cách mạng Việt Nam thông qua ba cao trào cách mạng: Cao trào cách
mạng 1930-1931, cao trào vận động dân chủ, chống phản động thuộc địa,
chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình (1936-1939)
và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám
(1939-1945).
Cách mạng tháng Tám là một trong những
trang sử vẻ vang nhất, chói lòa nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Cách mạng tháng Tám đập tan ách thống trị của thực dân
Pháp trong 87 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc
Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
[1] Quá trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr.23
[2] Phan Bội Châu toàn tập. Nxb Thuận Hóa, 1990, tập 6, tr.44
[3] Tạp chí Hồn Việt, số 105, tháng 7/2016, tr.13
[4] Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đăng: Vĩ đại một con người – Nxb Trẻ, 2007, tr.23
[5] Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tr.24
[6] Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr.28
[7] Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia 2011, T.12, tr.652.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.2,4,5
[9] Phan Bội Châu toàn tập – Nxb Thuận Hóa, tập 4, tr.132